Những cán bộ thời kỳ đầu góp mặt xây dựng, định hình một viện nghiên cứu khoa học về cây lúa tầm cỡ của vùng, bộc bạch rằng nhiệt huyết, ý chí cách mạng hợp cùng sức trẻ say mê khoa học đã giúp họ đồng tâm hợp lực vượt qua khó khăn.
Khởi đầu
Dẫu biết “vạn sự khởi đầu nan” nhưng thực tiễn còn gian nan hơn gấp trăm lần. Theo ký ức của GS Bùi Chí Bửu: “Năm 1979 là thời điểm bắt đầu xây dựng chính thức. Những khó khăn trong cơ chế thời bao cấp, làm cho tiến độ xây dựng rất chậm chạp.
Thời kỳ này, tính xung kích của đoàn viên thành niên mang đến hiệu quả rất quan trọng trong vận chuyển xi măng, sắt thép, đá cát để có lán trại điều hành đầu tiên vào năm 1980. Không ai đếm được có bao nhiêu ngày công lao động, kéo thuyền bằng tay, cả ban đêm lẫn ban ngày, vì sợ mưa làm ướt xi măng”.
Nhưng rồi khó khăn mấy cũng vượt qua nhờ sự giúp đỡ tận tình của chính quyền địa phương các cấp của tỉnh Hậu Giang cũ (nay là TP Cần Thơ). Đến năm 1984, tòa nhà chính của Viện Lúa ĐBSCL xây dựng hoàn thành, khang trang. Các bộ môn và phòng chức năng chuyển về làm việc.
Nghiên cứu giống lúa trong phòng thí nghiệm VL ĐBSCL. Ảnh: NĐT.
GS Bửu kể: “Công trình xây dựng cơ bản có những đột phá mới kể từ khi Bộ trưởng Lê Huy Ngọ chủ trương xây dựng các đơn vị khoa học có chiều sâu. Công trình 9km đê bao với đường bê tông khép kín, khu nhà nghiên cứu thí nghiệm đã được xây dựng hoàn chỉnh; trên 5.000 m2 nhà lưới đạt tiêu chuẩn phục vụ cho công tác nghiên cứu thực nghiệm; 40ha ruộng thí nghiệm cho lúa và rau màu với hệ thống đường bê tông rất tốt cho từng lô thửa ruộng với hệ thống tưới tiêu chủ động; khu ruộng nhân giống 227ha cũng được san ủi, phân lô hoàn chỉnh với hệ thống tưới tiêu chủ động là cơ sở rất tốt để nhân giống siêu nguyên chủng (SNC), nguyên chủng (NC) và một phần giống xác nhận (XN) cung ứng cho các trung tâm giống các tỉnh và nông dân. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật như: sân phơi, hệ thống nhà máy sấy, phục vụ sản xuất và chế biến giống lúa đồng bộ, đảm bảo cho công tác nhân giống đạt chất lượng cao”.
Viện lúa có 7 phòng thí nghiệm chuyên ngành đều được trang bị các thiết bị máy móc hiện đại đáp ứng được hầu hết các yêu cầu nghiên cứu khoa học hiện nay bao gồm: Phòng phân tích đất và cây trồng, Phòng thí nghiệm công nghệ sinh học, Phòng thí nghiệm bệnh cây, Phòng thí nghiệm côn trùng, Phòng thí nghiệm di truyền và chọn tạo giống, Phòng thí nghiệm vi sinh vật và Phòng phân tích phẩm chất lúa gạo.
Bên cạnh đó, nhờ chính sách tăng cường cơ sở vật chất khoa học của Bộ NN-PTNT, dự án công nghệ hạt giống; Rockefeller Foundation, chương trình ITEC (Ấn Độ), chương trình CLUES do IRRI và ACIAR (Úc) tài trợ…Viện đã có những trang thiết bị cần thiết phục vụ cho nghiên cứu như hôm nay về công nghệ sinh học, khoa học đất, bệnh cây, côn trùng, trạm khí tượng, công nghệ hạt giống.
Tạo nguồn
Trong chặng đường lịch sử phát triển của Viện, nội dung đào tạo con người là ấn tượng nổi bật. Trong suốt những năm đầu, Viện vừa xây dựng, vừa đào tạo xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học. Ban Lãnh đạo Viện lúc bấy giờ xác định công tác đào tạo là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu.
Từ năm 1982, GS Nguyễn Văn Luật từ Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam (VASI) về làm Giám đốc trung tâm và sau này là Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL giai đoạn 1985-1999. GS Luật hồi tưởng: "Thời tôi làm Viện trưởng, có những năm Viện đưa đi rất nhiều cán bộ trẻ đi nghiên cứu sinh, tu nghiệp theo các lĩnh vực chuyên ngành ở các nước có nền tảng nghiên cứu nông nghiệp tiên tiến".
Dấu ấn ngoại giao trong những năm đầu hòa bình mở ra nhiều cơ hội thuận lợi lớn, tạo tiền đề để Viện Lúa ĐBSCL phát triển sau này. Cột mốc ban đầu là sau chuyến thăm Ấn Độ của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng vào đầu năm 1976. Ấn Độ đồng ý hợp tác khoa học hai công trình trọng điểm trong nông nghiệp: Viện Lúa ĐBSCL đặt tại Ô Môn, Hậu Giang (tỉnh cũ) và Trung tâm trâu sữa Murah, đặt tại Bến Cát, Sông Bé (tỉnh cũ).
Cuối 1976, ông Swamminathan thừa ủy quyền của bà Indira Ghandi (cố Thủ tướng Ấn Độ) đến Việt Nam cùng với Thứ trưởng Ngoại giao Lê Duy Trinh, đặt nền móng cho cam kết của lãnh đạo hai nước. Năm 1981, ông E.A. Siddiq, tiến sĩ chuyên ngành di truyền giống, thay mặt ICAR (Hội đồng tư vấn khoa học nông nghiệp Ấn Độ) đến Viện Lúa ĐBSCL soạn thảo chi tiết kế hoạch đào tạo và trang thiết bị viện trợ (với sự tư vấn của nhiều nhà khoa học ở phía Nam thời ấy: Thầy Nguyễn Đăng Long, Lưu Trọng Hiếu, Tô Phúc Tường, Phạm Văn Kim, Nguyễn Văn Huỳnh…).
Viện đã tranh thủ đội ngũ chuyên gia Ấn Độ để đào tạo cán bộ khoa học tại chỗ, đồng thời xây dựng kế hoạch để đưa cán bộ trẻ sang Ấn Độ đào tạo.
Viện Lúa Quốc tế (IRRI) kết hợp với UPLB (University of Philippines, Los Banos) là địa chỉ đào tạo rất hiệu quả cho nhiều cán bộ khoa học của Viện cho đến bây giờ.
Sau đó, Viện đã khai thác rất có hiệu quả nguồn học bổng từ các nước Úc, Nhật Bản, Trung Quốc, Italy, Hoa Kỳ, mở ra nhiều hướng hợp tác mới giúp tăng cường tiềm năng nguồn nhân lực khoa học của Viện. Nhiều cán bộ khoa học của Viện đã tốt nghiệp tiến sĩ ở Ấn Độ đã thực sự trưởng thành và có nhiều đóng góp trong lĩnh vực khoa học và quản lý nhà nước thuộc Bộ NN-PTNT.
Nảy mầm
Từ những năm 1982-1990, Viện bắt đầu lai tạo lúa với định hướng: “Lúa cao sản ngắn ngày, trồng trước và sau lũ”, giải quyết trước mắt mục tiêu an ninh lương thực của cả nước. Trước 1989, nước ta phải nhập khẩu khoảng 2 triệu tấn lương thực mỗi năm. Ở ĐBSCL có 1,7-2,0 triệu ha canh tác lúa, chủ yếu là lúa mùa một vụ. Lúa cao sản lúc đó chiếm khoảng 30-40%.
Ruộng lúa thực nghiệm hơn 40 ha ở VL ĐBSCL. Ảnh: NĐT.
Diện tích lúa hai vụ tăng dần với tốc độ nhanh nhờ sử dụng nhóm giống có thời gian sinh trưởng 110-120 ngày rồi 105-110 ngày và gần đây là 90-100 ngày. Giống OM80 được lai tạo và chọn lọc (của Nguyễn Văn Loãn và các cộng sự) là giống đại trà đầu tiên rất thành công. Thời bấy giờ, giống đại trà du nhập từ IRRI là IR19660 rất thịnh hành sau thời kỳ hoàng kim của IR36.
Theo GS Bùi Chí Bửu, trong giai đoạn này là thời kỳ lai tạo với tốc độ 150-200 cặp lai mỗi năm, là tiền đề để nhiều giống lúa cao sản được phát triển sau đó. Sổ lai được ghi chép liên tục hàng năm, và được quản lý tốt theo hướng dẫn của GS Chandra Mohan, và qui trình của IRRI. Giống OM576 cũng được ra đời trong thời kỳ này, sinh trưởng 120-125 ngày, chịu khô hạn và mặn khá, trở thành giống chủ lực của bán đảo Cà Mau và Đông Nam Bộ trong nhiều năm và hiện nay vẫn còn tồn tại trong sản xuất với nhiều tên như OM576, Hầm Trâu, Siêu Hầm Trâu…
Kết quả sau gần 12 năm (từ khi thành lập 1977), giống lúa OM 80 (nguồn gốc IR36/IR5853-229) mang tên OM do Viện Lúa ĐBSCL lai tạo được công nhận chính thức vào năm 1988. Giống lúa mới trong thời gian rất ngắn, đáp ứng cho nhu cầu của sản xuất ở ĐBSCL lúc bấy giờ. (Còn nữa)
Thành quả đào tạo cán bộ khoa học của Viện có nhiều đóng góp vào thành tựu chung cho nền nông nghiệp nước nhà. Một số cán bộ khoa học sau này lãnh đạo nhiều đơn vị trực thuộc Bộ NN-PTNT, như: Thứ trưởng Bùi Bá Bổng, Nguyễn Thơ (Tổng GĐ Công ty Bông VN), Nguyễn Minh Châu (Viện trưởng Viện Cây ăn quả miền Nam - SOFRI), Bùi Chí Bửu (Phó GĐ Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam, Viện trưởng Viện KHKTNN Miền Nam); Đặng Kim Sơn (Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Nông nghiệp và PTNT); Nguyễn Xuân Lai (Viện trưởng Viện Nông hóa Thổ nhưỡng); Nguyễn Trí Hoàn (Viện trưởng Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm).
Viện lúa ĐBSCL chọn tạo được trên 180 giống lúa và phát triển trên 180 giống lúa các loại. Trong đó có 82 giống được công nhận giống quốc gia. Hiện nay trong 10 giống lúa được trồng phổ biến trên cả nước, Viện Lúa đóng góp 5 giống.